Từ năm 1980 trở lại đây, do yêu cầu thâm canh tăng năng suất, con người đã sử dụng quá
nhiều thuốc hóa học để trừ sâu, bệnh hại và cỏ dại cho nhiều loại cây trồng, mặc dù vậy, năng
suất thất thu hằng năm từ 20 –30%. Một số nơi đã xuất hiện tình hình lạm dụng thuốc hóa
học trong thời gian dài làm mất đi sự đa dạng trong sinh học, số lượng và số loài các côn trùng
có ích bị giảm đi rất nhiều dẫn đến sự mất cân bằng sinh thái là nguyên nhân chính cho sự
xuất hiện ngày càng nhiều loài dịch hại như : chuột, ốc bưu vàng, rầy nâu, sâu xanh, bệnh
vàng lá, bệnh cháy lá, bệnh khô cằn vv…
Hiện tượng kháng thuốc của một số loài sâu hại quan trọng cũng đã được ghi nhận. Mặc khác,
việc dùng không đúng biện pháp hóa học đã gây ra ô nhiễm môi trường, để lại dư lượng thuốc
trừ sâu quá giới hạn cho phép trên nông sản.
Chi phí sử dụng thuốc trừ sâu, bệnh và cỏ dại ở Việt Nam hàng năm tốn kém đến 26 triệu USD
(năm 1997), 200 triệu USD (năm 1998), bên cạnh đó lại có nhiều nhà máy sản xuất thuốc trừ
sâu bằng thuốc hóa học được xây dựng ở các tỉnh thành miền Nam, làm cho việc sử dụng
thuốc trừ sâu có nguồn gốc hóa học ngày càng nhiều.
Trên thế giới, trong những năm gần đây nhiều nghiên cứu đã sử dụng công nghệ sinh học (đặc
biệt là công nghệ vi sinh) vào lĩnh vực bảo vệ thực vật. Việc chuyển các gen kháng sâu bệnh
cho cây trồng, kháng thuốc trừ cỏ, hoặc sử dụng gen theo những mục tiêu có lợi làm tăng hiệu
lực các chế phẩm sinh học là những mục tiêu chính nhằm giảm dần sử dụng hóa học trong
công tác bảo vệ thực vật mà các công ty thuốc trừ sâu đa quốc gia đã tiên phong đầu tư trong
lĩnh vực này (Monsanto, Du –pont, Novartis, Rhone Poulence, Rhone and Haas….)
Nhiều nước trên thế giới như : Mỹ, Úc, Canada, các quốc gia Đông Âu cũng đã nghiên cứu các
loài thuốc vi sinh trong BVTV, sử dụng càng nhiều các loại siêu vi khuẩn, vi khuẩn, nấm để trừ
sâu, bệnh hại, cỏ dại cho cây trồng, nhận nuôi các loại côn trùng có ích thả ra đồng để trừ
sâu, bệnh và cỏ dại rất có kết quả